Kính chào quý vị và các bạn đến thăm trang chủ www.phamvanban.org

 

Huấn Ca Tiên Rồng

 

 

I. Ba Kinh Nền Tảng

 

 Bàn Thờ Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi

 

 

 

Đọc Tác Phẩm

(Xin mở dấu nối sau đây)

 

 

I. Ba Kinh Nền Tảng

II. Bốn Kinh Sống Thực

III. Hai Kinh Phục Hưng

 

 

 

 [1] Là người dòng giống Lạc Long

Ðồng Bào ta nhớ thuộc lòng chín kinh

Tiên Rồng thứ nhất xác minh

Song Hiệp Hoàn Chỉnh trọn tình ai ơi

[5] Thứ hai Trầu Cau diễn lời

Thân Thương nguyên lý làm đời sống chung

Thứ ba hướng tới trùng phùng

Chử Ðồng: Bình Ðẳng Tột Cùng là đây

Tiết Liêu thứ bốn dựng xây

[10] An Dân Thịnh Nước xum vầy ấm no

An Tiêm tiếp đến chăm lo

Việc Làng Dân Chủ - đạo phò con dân

Vọng Phu thứ sáu góp phần

Chồng nào Vợ nấy chuyên cần tăng gia

[15] Trương Chi thứ bảy ấy là

Căn nguyên hạnh phúc – tình ta sáng ngời

Mỵ Châu thứ tám truyền lời

Làm Kinh Giữ Nước góp đời sĩ phu

Kết Kinh Phù Ðổng diệt thù

[20] Dấn thân Cứu Nước cho dù gian nan

Chín Kinh tóm lại chứa chan

Tiên Rồng văn hóa bao ngàn năm qua

 

 

 

       

Bài thơ trên mô tả những nét đặc trưng tiêu biểu về nội dung của chín truyền thuyết lưu hành ngàn đời trong lòng Dân Tộc Việt Nam, được gọi là Chính Thuyết Tiên Rồng.

Chính thuyết này thì khác biệt với cái gọi là “Chủ thuyết Mác – Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại” đang ra sức tuyên truyền, cải tạo tư tưởng, mà còn làm tha hóa Con Người Việt Nam sống trên quê hương đất nước do Đảng Cộng Sản chủ trương.

Vì thiếu quan niệm sống Phúc Đức của Tổ Tiên linh huấn, cho nên những lãnh tụ chính trị tiền nhiệm trong thời cận đại của Việt Nam đã nhắm mắt làm ngơ, du nhập những chủ thuyết và tổ chức ngoại lai, với ước mong cứu dân cứu nước thoát ách thực dân Pháp. Nhưng thực tế, vì thiếu Sức Mạnh Hồn Việt, cho nên Việt Cộng đã tạo ra nghiệp chướng với những hành động phản dân hại nước, chém giết, tù đày và hủy hoại nhân tài nhằm duy trì độc đảng cầm quyền trong gần thế kỷ nay.

Hậu quả nhãn tiền là Đảng Cộng Sản dẫn đưa dân nước vào tròng nô lệ kinh tế do tập đoàn cai trị Trung Quốc chủ xứơng, với các chính sách do thiên triều soạn thảo đem ra cho Việt Nam thi hành.

Từ những việc đấu tranh giai cấp, đấu tố và chém giết trong cuộc cải tạo ruộng đất Miền Bắc vào thập niên 1953, cho tới cướp phá tài sản, tù đày cải tạo người dân Miền Nam sau năm 1975, rồi nhượng đất bán biển đảo nhằm thực thi sách lược đô hộ của quan thày Trung Quốc “một vành đai, một con đường” để trở lại thời kỳ ngàn năm Bắc Thuộc như đã từng xảy ra trong lịch sử.

 Bởi thế sự chọn lựa tư tưởng sai lầm và thiếu Sức Mạnh Hồn Việt trong công cuộc tổ chức giải cứu Dân Nước, là điều kiện tiên quyết mà mọi người chúng ta cần quan tâm lưu ý. Trong khi Chính Thuyết Tiên Rồng là tinh hoa nền tảng của Văn Hóa Việt, được Tổ Tiên trang trọng đúc kết thành Biểu Tượng Tiên Rồng, lưu truyền trong lòng Dân Tộc trải qua bao ngàn đời của Lịch Sử Việt.

 Bổn phận và trách nhiệm của người Con Cháu Dân Tộc, như chúng ta ngày nay, là tìm hiểu học hỏi để nhận biết ý nghĩa trọng đại của Biểu Tượng Tiên Rồng mà Tổ Tiên muốn nhắn gởi, và chắc chắn đang ẩn chứa bao điều cao siêu hiện thực trong đó.

 Chính Thuyết Tiên Rồng cũng khác biệt với cái gọi là Tứ Thư Ngũ Kinh, Cửa Khổng Sân Trình, hay chữ Hán Nho trong kinh sách của người Trung Quốc. Điển hình, Kinh Dịch khai triển theo khái niệm âm dương, hay Tam Tài Thiên – Địa – Nhân (Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhân hoàng) là những ý niệm trừu tượng và là thành quả của óc suy luận thuần túy về Vật Chất vô tri vô giác.

 Chính Thuyết Tiên Rồng của Tổ Tiên lại đặt căn cứ trên Biểu Tượng Tiên Rồng về Con Người – đó là kết tinh của nhận thức hiện thực làm nền tảng cho con người, là mọi người và mỗi Người đều được tạo thành do Mẹ Tiên Cha Rồng phối hiệp. Tất cả cùng được sinh ra một lần, một lúc trong Một Bọc Trăm Con mà chúng ta tự xưng mình là đồng bào – đồng có nghĩa là cùng, bào là cái bọc, tức là anh em ruột thịt trong cả nước – làng hay vũ trụ – nhân loại.

 Theo giòng thời gian và đà xác tín quý trọng của toàn dân, chữ Tiên Rồng trở thành biểu hiệu cho Hai Vị Tộc Tổ, khai sinh ra dòng giống dân Việt vào khởi đầu lịch sử nhân loại. Bởi thế mà ngày nay mọi người Việt Nam chúng ta hãnh diện và xưng mình là Con Cháu Tiên Rồng.

 Chính Thuyết Tiên Rồng cũng không xuất phát từ chủ nghĩa, chủ thuyết, triết thuyết hay một nền tảng học thuyết của tôn giáo nào, mà được Tổ Tiên nhận diện đúng thực Con Người và Cộng Đồng Xã Hội, qua sinh hoạt và tâm tư bộc lộ cũng như thể hiện nếp sống văn minh văn hóa trong một xã hội anh em, Xã Hội Đồng Bào, xã hội của con người và làm người đích thực.

 Điểm khác biệt trong Lịch Sử Việt là Tổ Tiên truyền khẩu, truyền miệng, truyền cho nhau ghi nhớ Biểu Tượng Tiên Rồng ròng rã hàng bao nhiêu đời con cháu, từ đời này qua đời khác, làm nổi bật đặc tính sinh hoạt sống động hiện thực trong nếp sống của toàn thể Dân Tộc Việt, được gọi là Văn Hóa Việt.

 Chớ không phải hệ thống văn từ như đã ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái của nhà văn Trần Thế Pháp, mới xuất hiện vào đời Nhà Trần và được ghi nhận là tác giả viết theo văn hóa thời cuộc nhằm mang tư tưởng phò thiên triều phương Bắc.

 Bởi thế theo cách lưu truyền của Tổ Tiên, thì văn từ hay tư tưởng đã thường bị bóp méo, hiểu lệch lạc ý nghĩa tùy theo chế độ hiện hành, hoặc theo thời gian mà sửa đổi nội dung ngôn từ, đang khi biểu tượng thì mang tải ý nghĩa trước sau vẫn thế.

 Chính Thuyết Tiên Rồng ngày nay được anh em trong tổ chức Hoa Tiên Rồng phục hưng và khai sáng nhằm mục đích Giúp Dân Cứu Nước. Chúng ta trao chìa khóa cánh cửa tâm tư cho nhau, để cùng nhau mở rộng cửa kho tàng Văn Hóa Việt, và tìm lại những báu vật là Gia Tài Tổ Tiên để lại cho những ai xưng mình là Con Cháu Tiên Rồng.

 Chính thuyết chẳng những trung thực, mà còn thích hợp, thích nghi với hiện cảnh sống cho mọi người, mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính hay thời đại văn minh nhân loại. Vì chính thuyết luôn mở rộng cửa đón nhận tất cả những gía trị, tinh hoa tư tưởng trong đời sống nhân sinh, khai triển nếp sống con người, là Đạo Sống Việt trong Xã Hội Đồng Bào, xã hội thân thương bình đẳng, xã hội anh em từ một Bọc Mẹ Trăm Con của truyền thuyết Tiên Rồng.

 Chín truyện tích được lưu truyền trong Toàn Dân Việt từ đời này qua đời khác lại cưu mang những đặc điểm làm nổi bật biểu tượng Tiên Rồng, tức là có hai nhóm đặc tính Tiên Rồng được nhận diện nơi Con Người và Cuộc Sống, kế đến là phần cốt truyện lại nhắc tới thời đại của các Vua Hùng Dựng Nước.

 Dù rằng trong chín câu truyện ấy ẩn chứa nhiều tình tiết dị biệt ly kỳ, nhưng vẫn được Ông Bà lưu truyền nguyên vẹn tinh ròng cho chúng ta tới thời nay. Và bổn phận trách nhiệm của chúng ta là tìm hiểu, khám phá kho tàng Văn Hóa Việt để tìm lại những báu vật gia tài Dân Nước, bởi thế mà có Hoa Tiên Rồng ra đời nhằm Giúp Dân Cứu Nước, tổ chức tương quan lực lượng và đấu tranh chính trị với các loại giặc nước.

 Mỗi truyện tích của Chính Thuyết Tiên Rồng lại được nhắc nhớ bằng những biểu hiệu tôn quý trong các dịp Lễ Tết của Dân Tộc Việt Nam. Tất cả đã kết tinh quan niệm sống của dân tộc, và liên hợp chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ thống chỉ đạo mạch lạc, sống động và hiện thực, làm nền tảng căn bản cho toàn thể Văn Hóa Việt – tổng hợp và hệ thống hóa này được gọi là Hệ Tiên Rồng, tức là cái nhìn vào thực tế cuộc sống Con Người, đặt căn cứ trên cuộc sống một cách trọn vẹn, và không ra khỏi hay xa lìa cuộc sống con người.

 Do đó Hệ Tiên Rồng còn được gọi là Sinh Thức Hệ, tức là Chính Thuyết Tiên Rồng. Hệ thống biểu tượng Tiên Rồng này không phải do một người, hay nhóm người phát minh sáng chế ra, mà là cả một nền văn hóa đã và đang sống trong lòng Dân Tộc, dù ý thức có khác biệt ít nhiều, tùy người, nhưng Văn Hóa Việt được phát hiện là một hệ thống toàn bích, đang chỉ đạo cho tòan thể cuộc sống Xã Hội Con Người.

 Việc tìm hiểu, khảo cứu, áp dụng, ứng dụng để sống thích nghi với hiện cảnh là cả một tiến trình dài như bao ngàn năm trường tồn của Tộc Việt – khác biệt với Tộc Hoa – vẫn luôn tiếp diễn, cao siêu và hiện thực, là đặc điểm của Con Cháu Việt. Có thể nói mỗi chữ, mỗi câu, mỗi mệnh đề của Chính Thuyết Tiên Rồng ngày nay đang biên khảo, thì cũng đang trông chờ cả một thiên khảo cứu về lịch sử văn hóa của Dân Tộc Việt.

 Bởi thế cho nên, đây cũng là phần mà mọi người trong chúng ta cần tìm hiểu, học hỏi, thảo luận và đừng quên sự đóng góp thêm những khám phá mới của bạn, của chính bạn vào kho tàng Văn Hóa Chính Trị cao siêu hiện thực và tuyệt vời của Tổ Tiên.

 Ðiểm đặc biệt Tổ Tiên để lại, là một hệ thống biểu tượng chớ không phải hệ thống ngôn từ hay tư tưởng, vì rằng ngôn từ, tư tưởng thường bị tuyên truyền lệch lạc bóp méo nội dung hay ý nghĩa bởi mưu đồ danh lợi của nhà cầm quyền, chế độ hay thời gian. 

 Nhưng ngược lại, biểu tượng thì trước sau vẫn thế, vẫn còn nguyên vẹn tinh ròng dù cho trải qua ngàn đời con cháu, và cứ tùy thuộc thời đại mà chúng ta dùng ngôn từ thích hợp mà diễn tả biểu tượng, như trong Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age) của nhân loại hôm nay.

 Trong mỗi bài chánh thuyết của dân tộc, là ghi chép lại những điểm chính yếu, cưu mang bài học của Tổ Tiên. Dĩ nhiên, với thời gian cùng với sự phù trợ của Đức Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi, chúng ta sẽ có bản văn hoàn hảo, đúng thực và trọn vẹn, vì do đón nhận sự đóng góp ý kiến của nhiều người, của toàn dân.

 Diễn giải chánh thuyết, là phần có tham vọng đào sâu, tìm hiểu hệ thống biểu tượng tới tận ý nghĩa, và cố gắng đạt đến điểm tột cùng của suy tư có thể có. Do đó phần diễn giải, đôi khi trở thành khó hiểu cho một số người đọc, tuy nhiên bạn đọc có thể căn cứ vào lịch sử, vào đời sống dân nước mà rút ra những thí dụ cụ thể, những gương sống thực của các vị Minh Quân, Văn Thánh Võ Thần mà cùng giúp cho nhau học hỏi, thông toàn bài học của Tổ Tiên.

 Sau phần diễn giải là phần Tìm hiểu chính thuyết. Tiên Rồng được gọi là bài học Nền Tảng đầu tiên, vì trong đó chúng ta có nhận diện, có định nghĩa về Con Người và Xã Hội một cách hoàn chỉnh, toàn diện và đúng thực. Phần bài này được coi là đúc kết những nét đặc thù của Văn Hóa Việt, khai thác hết những nét đặc thù đó chúng ta có hệ thống tư tưởng chỉ đạo sống động và hiện thực, gọi là Hệ Tiên Rồng, qua nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp để áp dụng vào cơ cấu tổ chức xã hội con người, như biểu tượng Bọc Mẹ Trăm Con.

 

 

 

Quan Niệm Phúc Đức

 

 

1. Tiên Rồng

 

 

 

Bài học nền tảng bởi Tổ Tiên đề ra nguyên lý sinh hóa của vạn vật, đặc biệt căn cứ trên con người, tức nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh. Với bài học Tiên Rồng, chúng ta có được định nghĩa về con người hoàn chỉnh toàn diện, đúng thực: Thân – Trí – Tâm – Tuệ (Thân xác sinh động, Trí năng tinh biến, Tâm tình thông hiệp, Tuệ linh vĩnh cửu) của con người do Mẹ Tiên Cha Rồng song hiệp.

Hoa Tiên Rồng

 

- Thân Lực Sinh Động

- Trí Năng Tinh Biến

-Tâm Tình Thông Hiệp

-Tuệ Linh Vĩnh Cửu

 

 

Và từ nguyên lý mà chúng ta khai triển thành nguyên tắc áp dụng vào việc tổ chức như Cánh Kinh Thương, Cánh Thanh Niên, Cánh Xã Hội và Cánh Chính Trị của một Hoa Tiên Rồng.

Đặc biệt, Con Người Tiên Rồng, chúng ta khác biệt với những Con Người của nền văn hóa duy vật, duy lợi, duy tâm, duy linh đang làm tha hóa con người, và con người biến thành sinh vật kinh tế, con thú tiến bộ, động vật lao động trong hãng xưởng, và chi phối bởi cơ quan truyền thông rộn ràng hàng ngày.

Văn hóa và tổ chức ba góc theo hình Kim Tự Tháp trước mắt, chúng ta nhận ra đó là tổ chức chủ nô, trên là chủ nhân – dưới là nô lệ, trên là đảng trị – dưới là bị trị, cho dù cổ súy Chân – Thiện – Mỹ mà thiếu Tình thì chỉ là con người khiếm khuyết hạnh phúc.

Đang khi trong Truyền Thuyết Việt, Tổ Tiên lại nhận diện Con Người Tiên Rồng một cách đúng thực, và cộng đồng xã hội là Đồng Bào, là anh em từ Một Bọc Trăm Con của Mẹ Tiên Cha Rồng, tức là biểu trưng cho một xã hội bình đằng tột cùng và thân thương tột cùng.

Tiên Rồng đưa ra ý niệm về các đặc tính cá biệt của Tiên, của Rồng, và mẹ Tiên cha Rồng đã phối hiệp toàn nhất tương đồng. Bởi thế Tiên và Rồng là kết tinh toàn vẹn cho mọi tương quan sinh họat của con người, tương quan anh em nhằm thể hiện Con Người Tiên Rồng.

Biểu tượng Một Bọc Trăm Con của Chính Thuyết Tiên Rồng đã khẳng định Đặc Tính Xã Hội bẩm sinh và ngay cùng một lúc có trăm con người, cũng do kinh nghiệm của cuộc sống gia đình, với mẹ với cha, với anh chị em qua hình ảnh của tổ chức trăm người trăm việc – mỗi người mỗi việc, chớ không bao đồng công tác hay dẫm chân lên nhau.

Trong cuộc sống, con người nhận ra mình không thể sống đơn độc, mà ngay từ lúc bắt đầu sự sống, con người cần có mẹ có cha, có sự chăm sóc bảo bọc của tình thân ruột thịt anh chị em. Vì nếu sống đơn độc, con người không thể phát triển toàn vẹn về cuộc sống xứng đáng là người và làm Người.

Do kinh nghiệm từ đó con người nhận ra mình vừa là một hiệp thể cá biệt toàn vẹn, mà cũng vừa là một thành phần cộng đồng xã hội anh em, và vừa cùng chung một nguồn sống Mẹ Tiên Cha Rồng.

Cũng do kinh nghiệm của cuộc sống trong tình thân với cha mẹ anh chị em, con người nhận ra mình cũng có cùng một nguồn gốc, cùng một sức sống, và cùng chia sẻ cuộc sống với nhau, trong nhau và cho nhau. Con người rút tỉa kinh nghiệm cuộc sống từ bản thân, quây quần trong gia đình, tuy thế cuộc sống cũng không đóng khung trong tập thể hạn hẹp, mà đã mở rộng với nhiều con người khác nữa.

Vì vậy hai truyền tích Chử Đồng và Trầu Cau đã ghi nhận kinh nghiệm do cuộc sống đông người, tức xã hội anh em, Xã Hội Đồng Bào.

 

Văn Miếu: Hiền Tài Là Nguyên Khí Của Quốc Gia

  

2. Trầu Cau

 

Bài học Trầu Cau chia sẻ trực tiếp với bài học Tiên Rồng, là rút tỉa hình ảnh từ Bọc Mẹ Trăm Con ra hai anh em sinh đôi, giống nhau như đúc, thương nhau rất mực và chưa hề lìa nhau để ứng dụng vào đời sống con người, bằng Nếp Sống Tiên: Thân Thương Tột Cùng của Con Người.

Bài học Trầu Cau đã đặt nền tảng tương quan giữa người với người. Nghĩa là “thương nhau trọn tình, sẵn sàng chết vì thương, mà dẫu có chết cũng vẫn còn thương.” Tương quan anh em và tương quan vợ chồng trong một tổ chức.

Vì là nền tảng tương quan giữa người và người, nên cũng là nền tảng cho Xã Hội Con Người, được tổ chức từ gia đình, gia tộc cho tới cấp dân tộc hay cấp nhân loại theo nguyên lý Thân Thương Tột Cùng.

Từ lời linh huấn của Tổ Tiên quá thâm thúy diệu vời đó, cho nên chúng ta đã nhìn nhận xã hội Việt trong đó có bao tấm gương sáng ngời: nào là lòng mẹ bao la như biển Thái Bình, thiếu phụ Nam Xương, Anh phải sống, nuôi chồng trong tù cải tạo của cộng sản, và thành tín với vợ, chung thủy đợi chờ ngày đoàn tụ, dù tới chết cho gia đình hay chết cho quê hương thì cũng vẫn còn thương: “Tình nhà tình nước chết chưa hết tình!”

Cũng do kinh nghiệm cuộc sống thân thương của gia đình, con người nhận ra tình cảm giữa người với người, được xuất phát từ việc chúng ta nhìn nhận nhau là Anh Em, Giống nhau như đúc, và từ tâm thức ấy mà Quyết chẳng lìa nhau.

Tình yêu thương ruột thịt đó lại nhận thêm nhiều kinh nghiệm khi gia đình có thêm những người xa lạ, như người Anh trong truyền thuyết Trầu Cau cưới vợ, và cùng sống chung với người Em dưới một mái ấm gia đình.

Với cuộc sống đầy biến chuyển và trắc trở hiện nay, con người nhận ra rằng, tình thân thương chỉ tồn tại khi ta sẵn sàng đánh đổi cả cuộc sống mình cho những người mình mến thương, Sẵn sàng chết cho nhau, chết vì người thương.

Và rồi dù yêu thương nhau khắng khít, dù vượt thắng mọi trở ngại để bảo vệ tình thân thương, con người cũng trải qua kinh nghiệm qua sự chết, qua việc người thân vĩnh viễn chia lìa bởi đi tìm nhau mà chết, hóa thành trầu thành cau hoặc thành đá vôi.

Nhưng cũng do chính kinh nghiệm thăng hoa thành đá, trầu hay cau đó, do lòng thương nhớ không nguôi, con người lại cảm nhận là sự chết chẳng những không chấm dứt hoặc ngăn cản, mà trái lại, còn giúp chúng ta thể hiện trọn vẹn tình Thân Thương Tột Cùng, Mãi mãi có nhau, và khi đó không còn bất cứ gì có thể ngăn cản chúng ta kết hợp với nhau trong yêu thương, trong bảo bọc, trong tình nghĩa đồng bào.

 

 Cố Đô Hoa Lư

 

3. Chử Ðồng

 

Nếu như bài học Trầu Cau trong Chính Thuyết Tiên Rồng, rút tỉa từ “Bọc Mẹ Trăm Con” ra hai anh em, hai con người để áp dụng nguyên lý “Thân Thương Tột Cùng” của Nếp Sống Tiên, thì để dạy bài học “Bình Ðẳng Tột Cùng” và làm sáng tỏ Nếp Sống Rồng, Tổ Tiên lấy lại hình ảnh Tiên Rồng trong cặp Tiên Dung – Chử Đồng.

Công Chúa Tiên Dung là người đẹp, giầu, sang được mọi người yêu thương kính trọng, quyền thế cao cả tột cùng trong xã hội – Chúng ta thường nói sướng như tiên, theo chữ nho, chữ nhân ghép với chữ sơn thành chữ tiên, tiên là người ở núi, núi của, vật chất.

Cô Gái Việt tuổi trăng tròn thì chỉ có người thương mến qua dung nhan xinh đẹp, tính tình hiền hòa, ăn nói mặn mà có duyên.

Bởi Vua Cha còn có người không ưa, nhưng Công Chúa thì lại được cả triều thần quý trọng, khiến bao trai thanh gái lịch thầm mơ kết bạn với nàng!

Giờ đây Công Chúa Tiên Dung qủa là tiên giáng trần, viếng thánh địa nơi chàng rồng Chử Ðồng đói khổ, lang thang bên bờ sông bãi sú để kiếm ăn. Chàng nghèo đến nỗi chỉ có cái khố (cái quần đùi), mà vì hiếu thảo với cha nên Chữ Đồng phải cởi ra để liệm cho cha lúc người lìa trần.

Rồi sau đó chàng phải đành sống với cảnh tồng ngồng (không mặc quần) không khố! Nghèo tới cỡ đó là cùng! – Chử Đồng quả thực đang biểu hiện cho phần tinh thần, linh thiêng. Tiên Dung là biểu hiện của phần của cải, vật chất… và khi Tiên Rồng song hiệp! Hai thành phần linh thiêng và vật chất trong con người chúng ta đều được thăng hoa!

Tổ Tiên muốn dạy chúng ta điều gì vậy? Vâng, muốn sống với nhau, trước tiên chúng ta phải Thấy Nhau bằng con người thật, con người tinh tuyền, con người không bị lụa là gấm vóc vàng bạc, vật chất tài của che phủ… Quan niệm này đã khác biệt với những con người của xã hội đương đại vì họ lấy vật chất mà đo lường giá trị con người, chớ họ không nhìn nhận, không thấy nhau bằng con người thật như lời Tổ dạy.

Mặt khác, chàng là rồng thì ẩn mình trong lòng đất (thủy phủ) để chờ đợi cho tới khi công chúa Tiên Dung vây màn tắm gội... Nàng từ trời xuống, chàng từ đáy sông lên... Nàng giầu sang tuyệt thế, chàng tệ hơn khố rách áo ôm!

Xin hỏi, có ai hơn công chúa và ai thua chàng không khố… thế mà nên duyên, mà song hiệp, mà hoàn chỉnh… thì thử hỏi, xã hội này còn kẽ hở nào để mà phân cách, mà phân ngôi định cấp, phân chia giai cấp hay đấu tranh giai cấp?

Chính nhờ sự Song Hiệp Tiên Rồng đó, con người mới được hạnh phúc. Tiên Dung Chử Ðồng đã giúp dân.

Họ có cả một chương trình phát triển xã hội: giáo hóa dân chúng (dạy dân phép tiên), phát triển kinh tế (lập phố xá), ngoại thương (ra biển đi buôn), phát triển giao dịch, lưu thông (gậy thần rút đất)… và rồi khi họ Về Trời, dân chúng cũng được về theo, nghĩa là tất cả cũng được thành tiên… đẹp như tiên, sướng như tiên, hạnh phúc cực lạc!

Nhìn lại cuộc sống càng kéo dài và càng có đông người, thì con người càng thêm kinh nghiệm về những khác biệt trong tài năng, trong sức lực, cũng như trong may rủi, bất toàn của cuộc đời… như kinh nghiệm của Tiên Dung và của Chử Đồng.

Do đó, do kinh nghiệm đối xử với nhau, và do tâm tình muốn bảo đảm cuộc sống tốt đẹp cho hết mọi người, con người nhận ra rằng mỗi người phải Nhận thực chính mình.

Khi đã biết rõ thân phận Con Người của mình, mỗi người lại phải nhìn nhận và sống với những con người khác như những con người tinh vẹn, không để bất cứ ngọai vật nào làm sai lạc hình ảnh đích thực của con người. Chỉ thấy con người.

Cũng do kinh nghiệm san sẻ trong tình thân, con người nhận ra cách xử dụng thích đáng tài năng và của cải. Tài và của chỉ là những phương tiện để gíup nhau cùng phát triển, Tài của giúp người, để tất cả Mọi người cùng hưởng hạnh phúc và thăng tiến, không trừ ai.

Những kinh nghiệm sống đó, Tổ Tiên đã gói ghém tuyệt vời trong truyền thuyết Chử Đồng.

Nhắc tới đây, chắc chắn có nhiều bạn đọc hiểu nhiều về chi tiết Văn Hóa Việt hơn cả người viết… còn bao điều muốn nói nữa, nhưng mà làm sao mà nói hết được. Vì mỗi con cháu Việt – Con cháu của Tổ Tiên dòng giống Tiên Rồng siêu việt như các bạn đọc – với tâm hồn Việt, với máu huyết Việt luân lưu trong chính con người của bạn, đó là cả một kho tàng Văn Hóa Việt tiềm ẩn trong bạn, xin bạn hãy tự khai thác Gia Tài Tổ Tiên trong bạn?

Sau ba truyền thuyết làm Nền Tảng cho con người và cuộc sống con người trong xã hội, Tổ Tiên dạy chúng ta về một cơ cấu quan trọng nhất, đã chi phối mạnh mẽ tới đời sống con người, đó là Nước, là quốc gia, là chính quyền.

 

 

Cố Đô Hoa Lư

 

 

 

1. Kinh Tiên Rồng

  

 

 

Khai nguyên minh triết nước ta

Tiên Rồng phối hiệp – xây gia dựng đình

[25] Từ đây thắm đượm ân tình

Trăm con chung bọc – mẹ sinh một lần

Trọn tình trọn nghĩa ái ân

Mẹ cha xác quyết đôi phần như sau

Con người – hai nửa khác nhau

[30] Năm mươi theo mẹ lên mau núi rừng

Nửa phần còn lại reo mừng

Theo cha xuống biển tưng bừng hoan ca

Cha Rồng còn nhắn nhủ là

“Khi cần thì gọi – Có Ta về liền!”

[35] Tiên Rồng phát triển thường xuyên

Cháu con Tộc Việt khắp miền núi sông

Tuyệt thay Chánh Thuyết Tiên Rồng

Ông Bà xây dựng cộng đồng an vui

Căn nguyên Nhận Diện Con Người

[40] Tiên Rồng Song Hiệp – tạo đời toàn năng

Cha Rồng – biểu tượng nói rằng

Lực thân sinh động – Trí năng biến hòa

Và Tiên hiện hữu trong ta

Làm nên người thật ấy là nhân sinh

[45] Mẹ Tiên – biểu tượng chứng minh

Tâm tình thông hiệp – Tuệ linh vĩnh tồn

Con Người – nền tảng lập ngôn

Trí-Thân-Tâm-Tuệ trường tồn là đây

Tiếp theo công cuộc dựng xây

[50] Cộng đồng Xã Hội xum vầy như sau

Hiệp hai hoàn chỉnh nhiệm màu

Trăm Con Một Bọc cùng nhau giúp đời

Trăm người trăm việc ai ơi

Căn cơ gia tộc tuyệt vời là đây

[55] Chẳng như tà thuyết phương Tây

Duy tâm, duy lợi… chất đầy bất công

Phân ngôi định cấp cộng đồng

Ðặt ra thống trị: chủ ông – tớ đày

Của tài vơ vét hàng ngày

[60] Bắt dân đóng góp kéo cày như trâu

Cấp trên cứ mãi làm giàu

Lừa khinh cấp dưới tóm thâu lợi quyền

Nào là đảng trị chính chuyên

Tự do – cũng bọn tuyên truyền hại dân

[65] Con người đau khổ muôn phần

Biến thành con thú – ta cần xóa tan

Thay bằng xã hội thịnh an

Tiên Rồng – hồi phục dung nhan con người

Quân bình tỷ lệ: năm mươi

[70] Số con theo mẹ bằng người theo cha

Tương đồng tuyệt đối ấy là

Song hiệp hoàn chỉnh – làm đà phát huy

Nguyên sinh vạn vật gẫm suy

Phê bình tiến hóa – cứu nguy loài người

[75] Kỷ nguyên cách mạng sáng ngời

Tiên Rồng Mở Hội – tiếng cười hoan ca

Núi – sông giao hữu hài hòa

Siêu linh – vật chất thăng hoa muôn đời

Lý – tình minh định tuyệt vời

[80] Thân thương – bình đẳng bao thời khắc ghi

Nước – nhà lúc thịnh lúc suy

Hợp tan – tan hợp diệu kỳ ngàn thu

Mỗi người: sống nét đặc thù

Trong nền Phúc Ðức luyện tu hàng ngày

[85] Tinh thần – thể chất tỏ bày

Hiền hòa – dũng cảm hăng say giúp đời

Lo ăn mặc – cũng thảnh thơi

Cá nhân – tập thể xin mời lo toan

Sống nhân – lẫn trí kiện toàn

[90] Hợp tình – hữu lý hiền ngoan Tiên Rồng

Gia đình: thuận vợ thuận chồng

Thương yêu kính trọng – hòa đồng việc chung

Sống tình lẫn nghĩa – ung dung

Vô nam dụng nữ – cũng cùng như nhau

[95] Vợ chồng, con cháu trước sau

Việc làng việc nước – hãy mau trau dồi

Gái trai – hiếu thảo xứng đôi

Kính thờ Quốc Tổ – nhớ nôi Tiên Rồng

Cộng đồng: trên dưới, nhưng không

[100] Lạm quyền thống trị: chủ ông – tớ đày

Thời nào mà chẳng nghèo – giàu

Chung giàn cuộc sống bí – bàu chẳng phân

Tước thiên mà có tước nhân

Lý – tình đạo sống mười phân vẹn mười

[105] Gia đình – gia tộc, loài người

Từ làng đến xã vui cười đoàn viên

An dân chính trị gắn liền

Vua – quan vì nhiệm khắp miền ấm no

Ðức – tài lãnh đạo chăm lo

[110] Chẳng vì chức vị tự do lộng hành

Nào đâu quân chủ chính chuyên

Thực ra dân chủ khắp miền lân bang

Phép vua thua với lệ làng

Chứng minh cuộc sống nhịp nhàng vì dân

[115] Chăn dân mà lại ân cần

Ðáp ứng nguyện vọng toàn dân tỏ bày

Mưu cơ – đạo lý thẳng ngay

Quang minh chính đại – ra tay cứu đời

Sống theo văn hóa sáng ngời

[120] Với người khuất mặt – với đời nhân sinh

Xét về kinh tế xứ mình

Thực thi bình sản dân tình an khang

Không thừa không thiếu rõ ràng

Kiệm cần liêm chính – lại càng thảnh thơi

[125] Tấc vàng tấc đất ai ơi

Mặc bền ăn chắc là lời huấn linh

Trăng thanh gạo trắng hữu tình

Tạo ra của cải là vì thân thương

Con người gắn bó quê hương

[130] Quốc phòng quân sự khắp phương thuận hòa

Xã làng – tổ chức nước ta

Vừa làm kinh tế – vừa là chiến khu

Giữ làng giữ nước – bao thu

Toàn dân là lính diệt thù lập công

[135] Có văn lẫn võ – hòa đồng

Giữ nhà giữ nước vợ chồng dân binh

Hỡi cô du kích chung tình

Bên anh diện địa – có mình có ta

Vừa lo giết giặc – mà là

[140] Cứu người lương thiện – Tình Ca Ðồng Bào

Tiên Rồng – Ðạo sống tự hào

Thờ Trời mà cũng đề cao Thờ Người

Tại tâm – thể hiện vui tươi

Lễ nghi – chứng tỏ con người thiện tâm

[145] Trên dương sống mãi như âm

Từng người – toàn thể đồng tâm giúp đời

Bao điều tôn giáo tuyệt vời

Thế nhưng chỉ nhận những lời thích nghi

Gia Tiên – Quốc Tổ khắc ghi

[150] Tình chân thiện mỹ – không gì sánh hơn

Ngày nay nhân loại gặp cơn

Khiếm khuyết hạnh phúc – oán hờn kiếp sinh

Gây ra bao cảnh bất bình

Ðấu tranh giai cấp – đoạn tình anh em

[155] Xin mời thế giới đến xem

Con đường nhân bản sẽ đem hiệp đồng

Ðó là Chánh Thuyết Tiên Rồng

Giúp cho nhân loại – chờ trông cứu người

Trăm Con Một Bọc tuyệt vời

[160] Công bình bác ái sáng ngời là đây

Từ bi hỷ xã chứa đầy

Ta vâng Thánh Ý – đi xây Con Người.

 

Hoa Song Hiệp

 

 

 

2. Kinh Trầu Cau

 

Thứ hai diễn tả tình người
Ông Bà dẫn chứng cuộc đời Trầu Cau
[165] Sinh đôi – hai đứa giống nhau
Trăm con một bọc – cơm rau cạnh kề
Có nàng chớm tuổi cặp kê
Luống mong mình có tóc thề sánh vai
Nàng nhìn tư cách cả hai
[170] Kính trên nhường dưới – đức tài ngang nhau
Giúp nàng suy tính trước sau
Trao duyên gởi phận – lựa vào người anh
Chuyện tình đậm nét xuân xanh
Vợ chồng hiệp nhất – anh em một nhà
[175] Ngày kia trông cuốc hóa gà
Gặp em – nàng những nghĩ là “hôn phu”
Phận em đành quyết chu du
Dẫu rằng xa cách – cũng vì thương anh
Hành trình biển nhớ đoạn đành
[180] Sống thiêng thác gởi – hóa thành đá vôi
Nhưng anh lòng luống bồi hồi
Nhớ em – chàng kiếm chốn đồi xa xăm
Khóc thương – tượng đá đang nằm
Người anh cũng chết biến nhằm cay cau
[185] Thương chồng – nàng mãi âu sầu
Đến nơi chồng chết – hóa trầu giây leo
Từ đây lễ tết, cưới cheo
Ăn trầu – tập tục giàu nghèo như nhau
Gẫm suy bài học Trầu Cau
[190] Giống như hai đứa – nhắc nhau Tiên Rồng
Bởi chưng Bọc Mẹ hòa đồng
Thân Thương – nguyên lý sống lồng trong kinh
Ðể cùng Bình Ðẳng phân minh
Chứa chan nhân nghĩa – dân tình nước ta
[195] Trăm Con Một Bọc – sinh ra
Ðồng Bào – cùng bọc mẹ cha sinh thành
Chu toàn trách nhiệm làm anh
Sánh duyên thiếu nữ – đặt thành tương quan
Ðến khi xảy chuyện bất an
[200] Tình Người – giải quyết hoà chan sáng ngời
Chẳng như thiên hạ - xử đời
Vợ chồng khi cưới – sống rời anh em
Tổ Tiên ta lại những xem
Cuộc đời xung khắc lẫn kèm yêu thương
[205] Cả ba – cùng chọn một đường
Ðồng sinh đồng tử – tình thương vẹn toàn
Dương âm – hằng sống bình an
Trầu Câu âu yếm che tàn Ðá Vôi
Vị cay thơm ngát hương môi
[210] Hoà nhau thành máu – Chết rồi vẫn thương
Tích truyền nhân loại tỏ tường
Thương nhau trọn kiếp – nhẫn nhường khắc ghi
Sẵn sàng phải chết – xá chi
Dẫu rằng có chết – cũng vì thân thương
[215] Sống trong xã hội bình thường
Trầu Cau – nền tảng là đường dựng xây
Gia đình gia tộc – xum vầy
Họ hàng làng nước – sống đầy thương yêu
Tương quan xét đến các chiều
[220] Từ làng đến nước – một điều thân thương
Sáng soi chân lý ngàn phương
Trầu Cau – lời dạy thành chương dẫn đầu
Toàn dân – thực sống chung tầu
Thân Thương Bình Ðẳng – mưu cầu phát huy
[225] Nước nhà – lâm cảnh phân ly
Hiến thân bảo vệ - chẳng tùy cứ ai
Tiên Rồng văn hóa thoát thai
Ông bà, chú bác – nối dài kỷ cương
Anh em, con cháu – tỏ tường
[230] Diễn tình cốt nhục Thân Thương Tột Cùng
Hôm nay tà thuyết nói chung
Phân chia giai cấp – sao cùng yêu thương?
Bởi chưng nền tảng khinh thường
Gây bao tàn sát – nhiễu nhương hận thù
[235] Nhân quyền, cải tiến, nhà tù
Bất công chồng chất – mặc dù đấu tranh
Ta xem sự thể rành rành
I – you, nị – ngộ… tị ganh hàng ngày
Ðồng đẳng – là chữ giãi bày
[240] Phân ngôi định cấp – tớ thày là đây
Ta nhìn văn hóa phương Tây
Ðộc tài đa đảng – chứa đầy bất công
Nhưng theo Chánh Thuyết Tiên Rồng
Trầu Cau – căn cội Cộng Ðồng Thân Thương
[245] Tình Người – ta hãy am tường
Tâm Tụê nơi Mẹ – yêu thương dẫn đầu
Triển khai truyền thuyết nhắc câu
Cả hai diễn tả nhiệm mầu “chữ Song”
Trầu Cau liên kết Chử Ðồng
[250] Hình thành “chữ Hiệp” – Tiên Rồng là đây
Căn nguyên Song Hiệp giãi bày
Trăm Con Một Bọc – đi xây cuộc đời
Thân Thương Bình Ðẳng – sáng ngời
Chứng minh Sử Việt – ngàn đời đã qua
[255] Tới nay bổn phận chúng ta
Giúp Dân Cứu Nước – phục hồi quê hương
Tái sinh xã hội kỷ cương
Đề cao nguyên lý Thân Thương Tột Cùng

 

Hoa Tiên Rồng

 

3. Kinh Chử Đồng

Thứ ba truyền thuyết Sống Chung
[260] Tổ Tiên thuật chuyện Tiên Dung – Chử Ðồng
Sống trong xã hội Tiên Rồng
Căn nguyên Bình Ðẳng – hòa đồng việc chung
Có nàng Công Chúa Tiên Dung
Trăng tròn lẻ bóng – dạo cùng khắp nơi
[265] Như tiên tung cánh giữa trời
Luống mong tìm đến một nơi an bình
Kể ra cho rõ sự tình
Chử Ðồng vất vưởng mỗi mình ven sông
Thương thay kiếp sống Cha Rồng
[270] Áo cơm không đủ – chất chồng cô đơn
Sớm khuya lòng luống mong ơn
Tiên Rồng Song Hiệp thoát cơn đọa đày
Đợi chờ cũng đến một ngày
Ước sao nên một – kiếp này thảnh thơi
[275] Sáng nay công chúa ghé nơi
Vây màn tắm gội – đất trời thăng hoa
Hiện thân – mình ngọc tay ngà
Nào ngờ – dưới cát vốn là ẩn nhân
Nước trong – cuốn sạch bụi trần
[280] Trôi theo lớp cát – hiện thân Chử Ðồng
Cao xanh đã thắt chỉ hồng
Thấp cao hiệp nhất – vợ chồng nên duyên
Mẹ Tiên – vội xuất bạc tiền
Xây làng dựng phố – khắp miền ấm no
[285] Con dân – ra sức chăm lo
Dựng nên cuộc sống tự do thanh bình
Cha Rồng cũng góp phần mình
Phép tiên đã luyện – tận tình dạy dân
Tạo ra sung túc muôn phần
[290] Cộng đồng phát triển – đang cần bình an
Đời người lắm chuyện liên can
Những gì thịnh vượng – vua quan lo sầu
Tiên Rồng – biến hóa nhiệm mầu
Dân làng – mọi sự tóm thâu Về Trời
[295] Căn nguyên Nền Tảng tuyệt vời
Làm Con Người Thật là lời khuyên chung
Ðề cao Bình Ðẳng Tột Cùng
Tổ Tiên diễn tả nội dung Tiên Rồng
Tích xưa – thiên hạ thổi phồng
[300] Công nương hoàng tử - mới đồng sánh đôi
Thứ dân – cũng loại hoa khôi
Môn đăng hộ đối – tranh ngôi sang giàu
Tạo ra giai cấp khác nhau
Ăn trên ngồi trốc “bí – bàu” đấu tranh
[305] Bất công xã hội rành rành
Chủ nô chế độ – đoạn đành anh em
Tiên Rồng triết thuyết lại đem
Cành vàng lá ngọc – dân đen hợp hòa
Tiên Dung trẻ đẹp như hoa
[310] Giầu sang quyền thế – vậy mà yêu dân
Chữ Ðồng không khố che thân
Nghèo nàn mạt rệp – hưởng phần cưới tiên
Nàng Tiên lưu lạc khắp miền
Chính mình nhận thức – và tiên lên bờ
[315] Chàng Rồng nào dám hững hờ
Ẩn mình dưới cát – đợi chờ cơ duyên
Thấp cao – ván đã đóng thuyền
Sinh Con Trăm Ðứa – hưởng quyền quốc gia
Như dân – trong nước một nhà
[320] Lấy chi tài của – khiến ta chia lìa
Tiên Rồng văn hóa sáng tia
Ðừng cho ngoại vật ngăn chia cuộc đời
Nơi đây Chỉ Thấy Con Người
Toàn dân hạnh phúc – tiếng cười đoàn viên
[325] Thực thi Bình Ðẳng như Tiên
Ta noi gương Mẹ – dùng tiền nuôi dân
Gương Cha – cũng được góp phần
Tài năng biến hóa – chuyên cần dạy khuyên
Giúp dân Sống Thực căn nguyên
[330] Phát huy toàn diện – vang truyền gần xa
Cháu con noi đức mẹ cha
Tài năng của cải chỉ là hỗ tương
Chớ dùng tài của đo lường
Phân ngôi định cấp – thân thương xa lìa
[335] Mà gieo tai họa đầm đìa
Ăn trên ngồi trốc – phân chia giàu nghèo
Gây ra cuộc sống cheo leo
Khinh khi cốt nhục – rắc gieo tương tàn
Tiên Rồng – xã hội thịnh an
[340] Mọi người cùng hưởng – sẻ san gia tài
Chẳng dành hạnh phúc riêng ai
Về Trời – dẫn tới tương lai thanh bình
Từ người tới vật hữu sinh
Hoàn toàn được hưởng trong tình Thân Thương
[345] Tuy rằng cũng có ít phường
Tham quyền lạm chức nhiễu nhương dân lành
Ðể răn những kẻ lộng hành
Toàn dân khinh bỉ – Sử xanh chê cười
Chẳng như văn hóa xứ người
[350] Chủ nô – cổ võ coi người như trâu
Cấp cao sẵn thế làm giầu
Ðạp lên đồng loại – tóm thâu lợi quyền
Và nền Ðạo Việt lại khuyên
Góp chung Phúc Ðức – lưu truyền nghìn thu
[355] Sống theo nguyên lý đặc thù
Tột Cùng Bình Ðẳng – chân tu Con Người

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Xin mời đọc tiếp

 

 

1. Ba Kinh Nền Tảng                         2. Bốn Kinh Sống Thực

3. Hai Kinh Phục Hưng                     4. Con Người Thời Đại

5. Thời Đại Tiền Sử                           6. Thời Đại Nông Nghiệp

7. Thời Đại Công Nghiệp                  8. Thời Đại Tín Nghiệp

 

 

 

 

 

 

 

 

| Trang Chính    | Tiểu Sử |   | Tác Phẩm |   | Hình Ảnh |   | Thân Hữu |

© 2000 Vietnamese Liberal And Democratic Organization (VLDO). All Rights Reserved

© Educational Research: Competencies for Analysis and Application